Thời Quang Tông Tống_Ninh_Tông

Ngày Nhâm Tuất tháng 2 ÂL năm thứ 16, Hiếu Tông nhường ngôi cho Quang Tông, lên làm thái thượng hoàng[6]. Ngày Kỉ Hợi tháng 3 ÂL cùng năm, Triệu Khoáng được phong làm Thiếu bảo, Vũ Ninh quân tiết độ sứ, tiến tước Gia vương[4]. Mùa xuân năm Thiệu Hi nguyên niên (1190), tể tướng Lưu Chính dâng biểu xin lập Triệu Khoáng làm thái tử nhưng không được chấp nhận.

Tháng 5 ÂL năm 1194, Thọ hoàng bệnh tình nguy kịch, rất muốn gặp Quang Tông, đã sai tả hữu đến triệu nhiều lần[7]. Mãi về sau, các đại thần La Điểm, Bành Quy Niên, Hoàng Thường khuyên Quang Tông cho Gia vương đến cung Trùng Hoa thăm hỏi, Quang Tông mới chuẩn y. Gia Vương đến nơi, Thọ hoàng tỏ ra xúc động, nước mắt chảy dài.

Đêm Mậu Tuất tháng 6 ÂL năm Thiệu Hi thứ 5 (28 tháng 6 năm 1194), Thọ hoàng băng hà ở cung Trùng Hoa[8]. Lưu ChínhTriệu Nhữ Ngu liên danh mời Quang Tông đến cung Trùng Hoa chịu tang. Quang Tông thoạt đầu đồng ý, nhưng hôm sau quá trưa vẫn không ra ngoài. Sau đó Gia vương Khoáng cũng dâng sớ cầu xin, Quang Tông không hồi đáp. Lưu Chính phải nhờ Thọ Thánh hoàng thái hậu Ngô thị (vợ Cao Tông, về sau tôn là thái hoàng thái hậu), xin thái hậu lấy thân phận người mẹ mà làm chủ tang[7]. Thái hậu bằng lòng và cho phát tang ở điện Thái Cực[7].

Sau đó Lưu Chính thấy phải suất đại thân tâu xin lập thái tử. Quang Tông không đáp. Mãi đến lần xin thứ sáu, Quang Tông mới phê hai gọn lỏn hai chữ: rất tốt. Quần thần muốn có lời phê rõ rằng hơn, Quang Tông mới ghi thêm 8 chữ: đã lâu lắm rồi chỉ muốn nghỉ ngơi[7]. Lưu Chính đọc xong cảm thấy sợ hãi. Lưu Chính cùng Triệu Nhữ Ngu bàn bạc, ý của Lưu Chính là cho Gia vương làm thái tử chấp chính, Triệu Nhữ Ngu muốn Quang Tông phải nhường ngôi. Lưu Chính không biết làm thế nào, nên giả bệnh xin từ chức. Lưu Chính đi rồi, lòng người không yên. Tả tư lang Từ Nghị khuyên Triệu Nhữ Ngu mời cháu rể thái hoàng thái hậu là Hàn Thác Trụ đến thuyết phục thái hoàng thái hậu cho Gia vương nối ngôi. Khi Hàn Thác Trụ đến nơi, Nhữ Ngu mời vào yết kiến thái hoàng thái hậu để tấu thỉnh. Thái hoàng thái hậu không cho. Nhưng có nội thị Quan Lễ cũng thuyết phục hết lời, thái hoàng thái hậu mới chịu. Quan Lễ báo với Thác Trụ rằng ngày mai sáng sớm thái hoàng thái hậu sẽ buông rèm chấp chính[7]. Thác Trụ báo với Nhữ Ngu. Nhữ Ngu mời thêm Trần Quỳ, Dư Doan Lễ đến gặp, sai điện soái Quách Cảo nhân đêm tối đem binh chia ra bảo vệ đại nội nam bắc, quan lễ sử Phó Xương được lệnh bí mật làm hoàng bào. Ngày hôm đó, Gia vương sai người đến cáo xin nghỉ không lên triều vào ngày hôm sau. Nhữ Ngu bảo Gia vương phải có mặt.

Ngày hôm sau, quần thần có mặt đông đủ, Gia vương cũng mặc áo tang đến. Triệu Nhữ Ngu cùng trăm quan đến gặp thái hoàng thái hậu đang ngồi trong rèm, xin để Gia vương lên ngôi hoàng đế. Chiếu viết

Hoàng đế có bệnh, đến nay vẫn không thể chịu tang, từng đã ghi ngự bút muốn lui về nghỉ ngơi. Hoàng tử Gia vương Khoáng lên ngôi hoàng đế. Tôn hoàng đế là thái thượng hoàng đế, hoàng hậu là thái thượng hoàng hậu, dời sang cung Thái An.

Thái hoàng thái hậu đồng tình. Bọn Nhữ Ngu lại xin rằng từ rày về sau sẽ tâu việc với tự quân, xin thái hoàng thái hậu làm chủ giải quyết hiềm nghi giữa hai cung cha con. Thái hoàng thái hậu lệnh Ngữ Nhu lập Gia vương lam đế. Gia vương từ chối

Sợ mang tiếng bất hiếu[7].

Nhữ Ngu bảo

Thiên tử phải lấy cái việc an xã tắc, định quốc gia mới là hiếu. Nay trong ngoài đều lo lắng, vạn nhất sinh biến thì thái thượng hoàng cũng mang vạ.

Rồi sai nội thị thay hoàng bào cho Gia vương, đưa Gia vương lên ngự ngai vàng, Nhữ Ngu và trăm quan cùng nhau bái lạy chúc mừng. Tự hoàng lên điện vẫn khóc rất thảm thương. Đó là ngày 24 tháng 7 năm 1194. Vua mới xưng là Ninh Tông hoàng đế, xá thiên hạ. Triệu Nhữ Ngu mời Lưu Chính trở về chấp chính, trong ngoài mừng rỡ, hết cảnh băn khoăn lo lắng. Ngày hôm sau (Ất Sửu), thái hoàng thái hậu hạ lệnh lập Sùng Quốc phu nhân Hàn thị - cháu 6 đời của cố tướng Hàn Kì - làm hoàng hậu[9].